1.
Những dấu hiệu chỉ ra tình trạng bò bị bệnh?
·
Thể trạng gầy ốm. Những bò có vấn đề về sức khỏe thì gầy ốm. Tuy nhiên một con
bò cao sản vừa sanh bê giảm trọng lượng thành gầy là điều bình
thường.
·
Tư thế đi đứng của con vật có thể không bình thường vì bị đau chỗ nào đó trong
cơ thể, Rõ ràng nhất là khi bị đau móng. Trong trường hợp này ta thấy bò đi khập
khiễng.
·
Mắt con vật cũng có thể cho ta một biểu hiện về tình trạng sức khỏe. Vật yếu thì
ánh mắt không sống
động
·
Da của con vật khỏe mạnh thì mềm mại dễ kéo lên. Bộ lông phải mượt và bóng.
Trong trường hợp thiếu máu, nhiễm ký sinh trùng, thiếu vitamin lông trở nên thô,
khô và không
bóng.
·
Niêm mạc ở mắt, mũi, âm hộ phải có màu hồng đến đỏ và phải ẩm. Khi con vật bệnh
thì các niêm mạc này trở nên quá đỏ hoặc quá
nhạt.
·
Vật khỏe thì ăn ngon miệng và ham ăn. Phân và nước tiểu thải ra theo luật thường
và phân có độ chắc vừa phải. Khi ta không nhìn thấy bò nhai lại, khi bò nằm nghỉ
điều đó là dấu hiệu của sự xáo trộn tiêu
hóa.
·
Con vật khỏe mạnh thì nhịp thở theo luật thường. trong trường hợp náo động, lo
âu, sốt, lao động nặng, mệt mỏi, nhiệt độ môi trường cao thì tần số hô hấp tăng
lên. Nhịp thở bình thường của bò mùa nóng từ 30-70 lần/phút, ở bê khoảng 100
lần/phút.
·
Nhịp tim của bê khoảng 100lần/phút và bò khoảng 60 - 70 lần/phút. Khi sốt, lao
động nặng, xáo động làm nhịp đập tăng
lên.
Thân
nhiệt trung bình của bò: 38.0 - 39.50C;
bê 39,5 - 400C;
Những con vật có thân nhiệt cao hơn giới hạn bình thường gọi là sốt. Những con
vật khỏe cũng có sự tăng nhiệt độ cơ thể ví dụ như sau khi lao động nặng, bị
stress nặng hoặc đứng dưới nắng trong ngày nắng. Thân nhiệt được đo bằng cách
đặt nhiệt kế vào trực tràng trong vài
phút.
·
Khi con vật ốm, sản lượng sữa giảm. Giảm nhiều hay ít còn phụ thuộc vào loại
bệnh.
2.
Nguyên nhân gây
bệnh?
Mỗi
con vật đều được sống trong một môi trường mà môi trường đó có thể thích hợp
hoặc bất lợi đối với chúng. Cơ thể con vật có những phương tiện để kháng lại các
sinh vật gây ra bệnh. Mức độ đề kháng của cơ thể phu ïthuộc vào yếu tố di truyền
và các yếu tố môi trường. Nếu các yếu tố môi trường bất lợi thì mức độ của con
vất chống lại các tác nhân gây bệnh giảm đi và do vậy cơ hội bị bệnh tăng
lên.
Những
yếu tố bất lợi ảnh hưởng đến sức khoẻ bò
sữa
·
Thiếu không khí trong lành, thiếu thức ăn, nước uống. Trong một số trường hợp bê
bị ỉa chảy chết thường do mất
nước.
·
Sản lượng sữa cao, khai thác kéo dài. Trường hợp cơ thể phải làm việc quá nặng
nhọc trong một thời gian
dài.
·
Những yếu tố khí hậu bất lợi như: nhiệt độ, mưa, gió, áp suất không khí và tia
phóng xạ. Nhiệt độ cao có thể dẫn đến làm tăng thân nhiệt. Con vất có thể nhiễm
lạnh khi bị lạnh đột ngột một phần cơ thể. Điều này có thể dẫn đến ỉa chảy hoặc
viêm phổi.
·
Ăn phải những chất gây độc có thể làm rối loạn các hoạt động trong cơ thể và
thậm chí có thể dẫn đến
chết.
·
Nhiễm bệnh nguy hiểm do vi khuẩn gây
ra.
3.
Bệnh ký sinh trùng là
gì?
Bệnh
gây ra do ký sinh trùng và thường xảy ra nên có tầm quan trọng lớn. Ký sinh
trùng sống ở trong hoặc ngoài cơ thể con vật, sử dụng chất dinh dưỡng của vật
chủ để sống. Ký sinh trùng gây tổn hại cho vật chủ
vì:
-
Chúng lấy thức ăn từ vật
chủ
-
Gây tổn hại các mô của vật
chủ
-
Chúng tạo ra những chất độc thấm vào vật chủ gây
độc
Khi
ký sinh trùng xâm nhập nhập vào cơ thể động vật chưa gây ra bệnh ngay mà cần
thời gian để sinh sôi nảy nở tiếp. Chỉ khi nào nào ký sinh trùng và chất độc do
chúng sinh ra đủ lượng thích hợp thì khi đó vật mới ngã bệnh. Khoảng thời gian
từ khi nhiễm ký sinh trùng cho đến khi xuất hiện triệu chứng bệnh gọi là giai
đoạn ủ bệnh. Giai đoạn này khác nhau ở các bệnh có thể kéo dài từ vài ngày, vài
tháng và thậm chí lâu hơn. Ký sinh trùng được phân loại thành ký sinh trùng động
vật và ký sinh trùng thực
vật.
· Ký
sinh trùng động vật đại diện là: các ký sinh trùng đường ruột (giun,
sán), cầu trùng (coccidia), ve bét và chấy
rận.
· Ký
sinh trùng thực vật đại diện là: nấm gây ra bệnh về da, vi
khuẩn.
Không
phải tất cả các vi khuẩn đều gây hại cho động vật. Trong thực tế chỉ có ít loài
có hại. Nhiều loài rất có ích ví dụ như vi sinh vật trong dạ cỏ. Vi khuẩn có thể
được phân loại theo những cách khác nhau. Phân loại theo hình dạng của chúng ta
có: cầu khuẩn, trực khuẩn, xoắn khuẩn… Phân loại theo mức oxy cần thiết để chúng
sinh trưởng và sinh sản tốt ta có vi khuẩn yếm khí và vi khuẩn hiếu
khí.
4.
Các loại bệnh kí sinh trùng thường gặp ở bò
sữa?
Trong bệnh ký sinh trùng, vật sống bám gọi là vật ký sinh (thí dụ như ve, giun
sán). Vật bị sống bám gọi là ký chủ (bò, bê) hay vật bị nhiễm kí sinh
trùng.
Vật
bị nhiễm ký sinh biểu hiện ra những triệu chứng lâm sàng gọi là bệnh ký sinh,
chưa biểu hiện ra những triệu chứng lâm sàng gọi là mang ký
sinh.
Tùy
vào vị trí cư trú của vật ký sinh trên cơ thể vật bị nhiễm mà người ta chia ra
thành những nhóm lớn như
sau:
Ký
sinh trùng đường ruột: Giun đũa, sán dây, sán lá ruột, giun xoăn dạ múi
khế....
Ký
sinh trùng đường hô hấp: Giun
phổi
Ký
sinh trùng đường máu: Tiêm mao trùng, biên trùng, lê dạng
trùng....
Ký
sinh ngoài da: ve, ghẻ,
nấm
Ký
sinh ở cơ: gạo lợn, gạo
bò.
Khi
xâm nhập vào cơ thể gia súc, vật ký sinh cướp chất dinh dưỡng của gia súc, vì
thế làm giảm năng suất của gia súc, làm tăng tiêu tốn thức ăn, đồng thời là yếu
tố mở đường cho những yếu tố bất lợi khác gây tác động có hại cho gia súc. Trong
thực tế người chăn nuôi ít quan tâm đến bệnh ký sinh trùng, vì hầu hết bệnh ký
sinh ở dạng mãn tính nhưng tác hại do bệnh ký sinh trùng gây ra là rất
lớn.
5.
Các bệnh ký sinh trùng đường máu thường gặp ở bò sữa và cách phòng
trị?
Các bệnh kí sinh trùng đường máu hay gặp ở trâu bò vùng nhiệt đới
là:
·
Tiêm mao trùng (Trypanosomiase)
·
Lê dạng trùng (Babesisllosis)
·
Biên trùng (Anaplasmosis)
TRIỆU
CHỨNG CHUNG CỦA BỆNH KÍ SINH TRÙNG ĐƯỜNG
MÁU
· Sốt
cao
40-41oC
· Thiếu
máu, niêm mạc vàng hoặc nhợt nhạt
.
· Nước
tiểu màu vàng
sậm
· Thủy
thũng vùng dưới hàm,
ức
Bệnh
lây truyền qua con đường máu bởi ruồi, ve.
Bệnh
tiêm mao trùng: bệnh do một loại tiêm mao trùng có tên gọi
là Trypanosoma
evansi gây ra. Triệu chứng điển hình của bệnh là gây sốt cao
40-410C,
cơn sốt gián đoạn không theo một quy luật nào. Ở thể cấp tính, khi sốt cao
thường thể hiện triệu chứng thần kinh như quay cuồng, đi vòng tròn, run từng
cơn. Bò thiếu máu và phù thũng những vùng thấp của cơ thể. Viêm giác mạc, iả
chảy dai dẳng. Có thể xảy thai, giảm sản lượng sữa. Bệnh truyền qua ruồi, mòng.
Bệnh thường ở thể mãn
tính.
Khi
vật bị nhiễm bệnh, có thể sử dụng những loại hóa dược sau để điều
trị:
-
Berenyl 7%, tiêm bắp với liều 3,5 - 7mg/1kg trọng
lượng.
-Tripamidium
1-2%, có thể tiêm bắp hoặc tiêm dưới da với
liều
0,2
- 0,5mg/1kg trọng
lượng.
-
Suramin (Naganol) 10% tiêm tĩnh mạch với liều 2,5mg/1kg trọng lượng. Tiêm hai
lần cách nhau một
tuần.
-
Novarsenobenzole 10% tiêm tĩnh mạch với liều 2,5 - 5mg/1kg trọng
lượng.
-
Quinapyramine 10% có thể tiêm bắp hoặc tiêm dưới
da.
-
Prothidium 2,5% tiêm bắp hoặc tiêm dưới
da.
Lưu
ý: luôn luôn xem kỹ hướng dẫn trên nhãn thuốc trước khi
dùng.
Phòng
bệnh: Quy
trình phòng bệnh tiên mao trùng gồm ba biện pháp chủ yếu như
sau:
·
Định kỳ kiểm tra máu mỗi năm hai lần để phát hiện tiên mao
trùng.
·
Diệt côn trùng hút máu và truyền bệnh. Phát quang bờ bụi và khai thông các cống
rãnh quanh chuồng và bãi chăn để côn trùng không có nơi cư
trú.
·
Chăm sóc nuôi dưỡng tốt để tăng sức đề kháng cho
bò.
Bệnh
lê dạng trùng: do động vật đơn bào có dạng quả lê hai mầm, đặc
trưng là loại Babessis
bigemimum, Babessis bovis. Bệnh truyền qua
ve.
Hầu
hết các nước nuôi bò sữa cao sản đều có bệnh này. Ở thể cấp tính bệnh thể hiện
triệu chứng sốt cao liên miên, nước tiểu chuyển từ vàng thẫm, đỏ sau đen như cà
phê. Niêm mạc vàng có chấm xuất huyết. Thủy thũng ở hầu, má. Con vật táo bón
hoặc ỉa chảy. Ơû Việt nam, các bò lai F1, F2 nhiễm lê dạng trùng với tỷ lệ thấp
(khoảng 2-5%) và ở thể mãn tính. Bệnh có thể điều trị bằng một trong những loại
thuốc sau:
·
Heamospiridin (LP-2) liều dùng 0,5mg/kg thể trọng. Thuốc dạng bột, pha với sinh
lí theo tỷ lệ tỷ lệ 1% tiêm chậm vào tĩnh
mạch.
·Acriflavin
(các biệt dược là: Trypanble, Trypaflavin, Flavacridin, Gonacrin) liều dùng
3mg/kg thể trọng. Thuốc pha với nước cất theo tỷ lệ 1%, có thể tiêm bắp hoặc
tĩnh mạch.
·
Azidin (hoặc Berenil hoặc Veribel) 3,7mg/kg trọng lượng pha thành dung dịch 7%
tiêm bắp.
Phòng
bệnh lê dạng trùng: Diệt ve, vệ sinh và nuôi dưỡng
tốt
Bệnh
biên trùng:
Biên trùng là một loại động vật đơn bào rất nhỏ ký sinh trong hồng cầu của gia
súc. Ở bò, thấy có hai loài biên trùng gây bệnh là: Anaplasma
margonale và Anaplasma
centrale. Bệnh truyền qua
ve.
Ơû
thể cấp tính, con vật sốt cao 40-42oC và
cơn sốt lên xuống thất thường. Toàn thân run rẩy, các cơ bắp, cơ vai, cơ mông co
giật. Bò ăn kém, chảy nhiều nước dãi. Khi phát bệnh, bò ngừng hoặc giảm tiết sữa
hoàn toàn. Sau 7-10 ngày gia súc chết tới
90%.
Thể
mãn tính bò gầy còm, thiếu máu, giảm sữa. Phân lỏng, hay bị chướng hơi dạ
cỏ.
Có
nhiều hóa dược đã được nghiên cứu và sử dụng trong điều trị bệnh biên trùng như:
Heamospiridin, Azidin, Sulfantrol, Quinarcin, Lomidin, Rivanol... nhưng trong đó
Rivanol có hiệu lực cao và được sử dụng phổ biến ở nước
ta.
Phòng
bệnh: Diệt ve, nuôi dưỡng tốt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét