KỸ THUẬT NUÔI HEO THỊT QUY MÔ NÔNG
HỘ
PHẦN
NĂM: BỆNH THƯỜNG GẶP &
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
1).
Dịch Tả :
Thuộc bệnh
truyền nhiễm gây ra do một loại siêu vi khuẩn (virus). Dịch tả lây lan mạnh trên
heo ở mọi lứa tuổi và thường dễ bộc phát trong những tháng giao mùa, nhất là vào
cuối mùa
mưa.
Khi heo nhiễm
bệnh, khởi đầu có hiện tượng bỏ ăn, sốt, đi phân bón, mắt đỏ có ghèn, sau 1 - 2
ngày chuyển sang tiêu chảy nặng, phân thối khắm. Heo kiệt sức rất nhanh và trên
da xuất hiện những điểm lấm tấm đỏ (do xuất huyết), tỷ lệ gây chết rất cao. Bệnh
tích điển hình ở nội tạng là lá lách nhồi huyết ở phần rìa và có hình răng cưa,
thận cũng xuất huyết rất rõ và thành trong ruột bị loét có dạng hình cúc
áo.
Do siêu vi
khuẩn gây bênh nên bệnh dịch tả không thể điều trị bằng thuốc kháng sinh. Biện
pháp dùng kháng huyết thanh dịch tả ngay khi phát hiện tuy có hiệu quả nhưng
trong thực tế ít có khả năng ứng dụng rộng rãi (nếu có sử dụng thì dùng liều 3
cc kháng huyết thanh/kg thể trọng/ngày và dùng liên tiếp 3 ngày). Do vậy, cần
tập trung vào việc phòng bệnh bằng vắc-xin và áp dụng các biện pháp chăn nuôi
theo hướng an toàn sinh học. Yêu cầu chủng ngừa vắc-xin lần đầu lúc heo được 28
- 30 ngày tuổi, còn heo con dưới 15 ngày tuổi chỉ nên chủng ngừa khi có dịch bộc
phát tại khu vực chăn nuôi. Lần chủng thứ hai sau lần đầu 2 tháng đủ để bảo hộ
heo nuôi đến khi xuất
chuồng.
2).
Tụ huyết trùng (Toi) :
Thuộc bệnh
truyền nhiễm do một loại vi trùng gây ra. Tụ huyết trùng thường bộc phát và lây
lan mạnh khi môi trường chăn nuôi gặp các yếu tố : thời tiết thay đổi đột ngột,
khi vận chuyển heo, chuyển chuồng mới... , đặc biệt bệnh dễ xảy ra khi heo nuôi
trong điều kiện chuồng trại thiếu vệ sinh, ẩm thấp, dinh dưỡng không đầy đủ hay
kế phát từ các bệnh truyền nhiễm khác. Heo trên 2 tháng tuổi dễ bị nhiễm hơn heo
con.
Bệnh phát rất
nhanh, khởi đầu với triệu chứng bỏ ăn, sốt, mũi miệng chảy nhớt, thở khó, ho,
tim đập nhanh, mắt đỏ, giai đoạn đầu đi phân bón, giai đoạn cuối tiêu chảy nặng,
trên da xuất huyết lấm tấm đỏ và khi chết thì toàn thân tím bầm, một số con đầu
và hàm bị phù. Bệnh tích điển hình ở nội tạng là các vết tụ huyết (nâu sẫm) ở
phổi và thận, lá lách bị sưng
to.
Biện pháp phòng
bệnh quan trọng là khâu vệ sinh, sát trùng chuồng trại, dinh dưỡng đầy đủ, ổn
định kết hợp với chủng ngừa vắc-xin. Lần chủng vắc-xin đầu tiên vào lúc 45 ngày
tuổi đủ để bảo vệ heo nuôi đến lúc xuất chuồng. Có nhiều loại kháng sinh có hiệu
lực điều trị bệnh Tụ huyết trùng ; tuy nhiên, phải xử lý sớm ngay khi phát hiện.
Có thể dùng một trong các loại thuốc kháng sinh như : Terramycine LA, Duranixin
LA, Amoxisol LA, Septotryl, Baytril, Clamoxyl, Genta-Tylosin … và phối hợp với
kháng sinh khác trong trường hợp nghi ngờ có ghép chung với các bệnh truyền
nhiễm do vi trùng khác. Đồng thời, trong quá trình điều trị nên bổ sung thêm các
loại vitamin, thuốc trợ lực, giảm
sốt.
3).
Phó Thương Hàn :
Thuộc bệnh
truyền nhiễm gây ra bởi một loại vi trùng. Phó thương hàn thường xảy ra ở heo
con vào giai đoạn lẻ bầy và heo lứa. Khi mới nhiễm bệnh, heo có triệu chứng bỏ
ăn, xù lông, phân bón như phân dê và có màng nhày bao bọc phân. Sau vài ngày
chuyển sang tiêu chảy, đặc trưng của bệnh này là biểu hiện lúc sốt cao, lúc thấp
hoặc không sốt và kéo dài trong nhiều ngày. Bệnh tích điển hình ở nội tạng là
thành trong ruột non có những chỗ bị loét, trên có phủ bựa vàng trắng, lách bị
dai, sưng, túi mật cũng bị
sưng.
Có nhiều loại
thuốc kháng sinh có hiệu lực đối với vi trùng gây bệnh, nhưng trong quá trình
điều trị thường gặp khó khăn là việc dùng thuốc phải kéo dài cùng lúc phải có
chế độ chăm sóc và dinh dưỡng đặc biệt là cho heo ăn thức ăn nấu chín, loãng để
tránh ảnh hưởng thành ruột đang bị vi trùng bào mòn nên trong thực tế hiệu quả
điều trị bệnh phó thương hàn không cao ; do đó, chủ động phòng bệnh vẫn là vẫn
là giải pháp hiệu quả hơn. Vắc-xin phòng bệnh phó thương hàn được chủng lần đầu
lúc heo được 5 tuần tuổi đủ để bảo hộ cho heo nuôi đến lúc xuất
chuồng.
Khi điều trị có
thể dùng các loại kháng sinh như : Spira-colistin, Baytril Max, Amoxysol LA,
Duranixin LA, Enro-Gentacol, Clamoxyl, Maxflo LA … kết hợp với thuốc kháng viêm,
giảm sốt (các loại thuốc không thuộc nhóm corticoid) và các loại vitamin, chất
điện giả để cân bằng điện giải trong máu khi heo bị tiêu chảy
nặng.
Trong thực tế,
các bệnh truyền nhiễm kể trên rất dễ có hiện tượng ghép 2 hoặc 3 bệnh nên việc
chẩn đoán và điều trị thường gặp khó khăn. Ví vậy, cần theo dõi kỹ trạng thái
heo hàng ngày để phát hiện sớm các trường hợp nghi ngờ nhiễm bệnh nhằm nhanh
chóng nuôi cách ly, dùng thuốc phối hợp theo hướng điều trị rộng lúc ban đầu,
sau đó tiếp tục theo dõi, quan sát các biều hiện của heo để chẩn đoán loại trừ
nhằm đi đến việc xác định bệnh chính xác. Tuy nhiên, cách tốt nhất để đối phó
với các bệnh truyền nhiễm là áp dụng quy trình chăn nuôi an toàn sinh học bao
gồm các giải pháp : thường xuyên vệ sinh chuồng trại – định kỳ xử lý thuốc sát
trùng chuồng trại và dụng cụ, phương tiện chăn nuôi – thực hiện chế độ dunh
dưỡng đầy đủ và ổn định – tiêm phòng đầy đủ vắc-xin – hạn chế việc ra vào nơi
chăn nuôi.
4).
Cúm :
Thuộc bệnh
truyền nhiễm gây ra do một loại siêu vi khuẩn. Cúm gây ra triệu chứng viêm phổi,
viêm khớp và thường xảy ra ở heo con theo mẹ, ít hơn ở heo tơ. Bệnh dễ bộc phát
ở nơi chăn nuôi có môi trường xấu như : chuồng trại thường xuyên dơ bẩn, ẩm thấp
hoặc khi thời tiết thay đổi đột ngột. Heo con nhiễm bệnh ban đầu có triệu chứng
ủ rũ, bỏ bú, ho, sốt, đi phân bón, một số trường hợp bị viêm khớp gối. Bệnh tích
chủ yếu là ở các ổ viêm, có thể có mủ tập trung ở
phổi.
Phòng bệnh
trước hết bằng biện pháp dinh dưỡng và vệ sinh chuồng trại, đồng thời nên sử
dụng kháng sinh phòng tổng quát pha trộn trong thức ăn, nước uống.Việc điều trị
bệnh cúm không trực tiếp diệt trừ được siêu vi khuẩn gây bệnh mà chủ yếu nhằm
ngăn chặn các bệnh khác kế phát, vì vậy cần theo dõi kỹ để phát hiện sớm và điều
trị nhanh bằng các loại thuốc kháng viêm (như Prednisolon, Hydrocortisone,
Dexamethasone…), thuốc trợ lực kết hợp với thuốc kháng sinh (Septotryl,
Strepnovil, Tylan 50, Suanovil
...).
Ngoài ra, nên
bổ sung sinh tố C với liều lượng 1 gram/50kg trọng lượng heo trong quá trình
điều trị để tăng sức đề kháng cho heo (lưu ý không pha chung sinh tố C với các
loại thuốc
khác)
5).
Tiêu chảy ở heo con (phân trắng) :
Thường xảy ra
trên heo con theo mẹ, do nhiều nguyên nhân nên thực tế rất khó xác định ; tuy
nhiên, bệnh này có liên quan đến các yếu tố môi trường bất lợi và cách chăm sóc
không tốt như do sữa mẹ thiếu dinh dưỡng hay mẹ đang mắc bệnh hậu sản, do heo
con bị nhiễm trùng cuống rún, do chuồng trại dơ bẩn, ẩm thấp, do thời tiết thay
đổi đột ngột, do heo con thiếu sắt … nên các loại vi khuẩn, siêu vi khuẩn dễ
phát triển và gây
bệnh.
Heo bệnh gầy
sút rất nhanh, lông xù, đuôi cụp, run rẩy, đi lại khó khăn, tiêu chảy phân
trắng. Nếu không điều trị kịp thời tỷ lệ chết có thể rất cao. Trong thực tế, heo
con bị bệnh sau khi điều trị khỏi bệnh cũng mất rất nhiều sức ; do đó, tốt nhất
là chủ động phòng bệnh bằng các biện pháp chính như sau : cho heo con bú được
sữa đầu, khẩu phần của heo mẹ phải đầy đủ dinh dưỡng và không nên thay đổi đột
ngột, chuồng trại heo nái và ngăn úm heo con phải luôn sạch sẽ, thông thoáng,
khô ráo, không có gió lùa, tiêm ngừa đầy đủ vắc-xin phòng các loại bệnh truyền
nhiễm cho heo mẹ trước khi sanh, nếu heo mẹ mắc bệnh hậu sản (sót nhau, viêm tử
cung, viêm vú …) cần điều trị dứt sớm. Ngoài ra, lưu ý phải bổ sung chất sắt cho
heo con bằng cách tiêm chế phẩm Fer – Dextran loại 200 mg (như Ferro 2000,
Dexprol 2000, Prolongal ...) với liều 1 cc/lúc 3 - 4 ngày tuổi, nếu sử dụng loại
Fer – Dextran 100 mg (Ferridex 100, Ferropen 100 ...) thì sau khi tiêm lần đầu
lúc 3 – 4 ngày tuổi thì cần tiêm tiếp lần 2 cũng với 1 cc lúc 10 ngày
tuổi.
Khi heo mắc
bệnh nên sử dụng các loại kháng sinh như : Ampidexalone (Ampicilline + Colistine
+ Dexamethasone), Terramycine, Sultriject, Neomycine, Codexin, Baytril Max …
Khi dùng kháng sinh nên phối hợp với các loại thuốc cầm tiêu chảy ; nếu nhẹ có
thể dùng nước sắc các loại lá có chất chát (lá ổi, cỏ mực...), than hoạt tính;
nếu nặng thì dùng các loại dược phẩm cầm tiêu chảy thông thường ; nếu nguy cấp
thì cần tiêm ngay Atropin (0,2 - 0,5 cc/con). Ngoài ra, khi tiêu chảy heo con
mất sức và mất nhiều nước ; do vậy, cần cho uống nhiều nước pha Orésol hoặc dung
dịch sinh lý tự tạo bằng cách pha 1 lít nước + 8 muỗng cà phê đường + 1 muỗng cà
phê muối ăn. Cũng có thể cấp thẳng dung dịch sinh lý ngọt qua đường chích dưới
da hay vào xoang bụng (40
cc/con/ngày).
6).
Ký sinh trùng :
Phổ biến là
giun, lãi ở đường ruột và phổi. Ký sinh trùng làm heo còi cọc, chậm lớn, thường
gây tiêu chảy nhẹ kéo dài. Thực tế, rất khó ngăn heo không bị nhiễm ký sinh
trùng ; do đó, cần dùng thuốc để tẩy giun, lãi định kỳ. Nên dùng các loại thuốc
chích có tác dụng diệt cả lãi ở ruột và phổi. Có thể chọn một trong các loại sau
: Tetramisol (còn có tên Anthelsil, Vinacor ...), Ivermectin (Ivermectin cũng
dùng để trị ghẻ), Dectomax…. Nên xổ lãi lần đầu khi heo vừa lẻ bầy, lần thứ hai
cách sau đó 3
tháng.
7).
Lở mồm long móng (FMD) :
Thuộc bệnh
truyền nhiễm do một loại siêu vi khuẩn gây ra. FDM lây lan rất nhanh rộng. Bệnh
thường gây chết cho heo còn nhỏ, ít gây chết cho heo trưởng thành nhưng làm giảm
năng suất, sản lượng, giảm giá trị quày thịt và heo nái chửa thường gây sẩy
thai.
Khi heo nhiễm
bệnh, hời gian nung bệnh từ 2 – 3 ngày, một số trường hợp có khi đến 10 ngày.
Lúc đầu heo có hiện tượng bỏ ăn, sốt cao, run rẩy, mụn nước mọc ở nướu răng,
lưỡi, vành miệng, phần tiếp giáp giữa mong và chân, bầu vú heo nái. Sau vài ngày
các mụn này vỡ ra tạo thành vết loét, dễ nhiễm trùng sinh lở, mủ làm heo không
thể ăn uống, đi lại khó khăn, đau và khi lở loét nặng có thể gây sút cả móng. Do
các vết loét trong miệng nên heo chảy nước dãi rất nhiều, lưỡi cứng và thè ra
ngoài.
Bệnh tích điển
hình là miệng có vết lở loét ở lợi, chân răng, hầu, thực quản, lưỡi. Phổi có thể
bị viêm, tim mềm, có vết xám hay các chấm nhạt, lách sưng đen, móng bị long ra
hoặc sút
hẳn.
Do siêu vi
khuẩn gây ra bệnh nên không có thuốc đặc trị đặc hiệu. Có thể dùng kháng sinh
chữa các mụn loét ở miêng, móng và vú hoặc dùng chanh hay khế chà xát vào các
vết loét này. Tuy nhiên, cần lưu ý các biện pháp này chỉ có tác dụng ngăn ngừa
nhiễm trùng kế phát, không diệt được siêu vi khuẩn gây bệnh. Do vậy, biện pháp
duy nhất và hiệu quả nhất la tập trung vào công tác phòng bệnh ; trong đó, ngoài
áp dụng các biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học thì yêu cầu bắc buộc là phải
tiêm phòng vắc-xin. Thông thường, tiêm vắc-xin lần đầu cho heo vào lúc 2 tháng
tuổi, nếu ở nơi đang có nguy cơ đe doạ thì cần chủng sớm hơn vào lúc 2 tuần
tuổi. Lần chủng thứ 2 cách lần đầu 30 ngày, còn các lần kế tiếp cách khoảng 5 –
6 tháng. Bên cạnh yêu cầu tiêm vắc-xin cần kết hợp thực hiện các biện pháp : chỉ
mua heo giống đã qua kiểm dịch, chăn nuôi cách ly heo mới nhập về để kiểm tra,
định kỳ xử lý sát trùng chuồng trại và dụng cụ chăn nuôi ... Do tính chất nguy
hiểm của bệnh lở mồm long móng nên khi phát hiện heo bị bệnh tuyệt đối không
được giết mổ hoặc bán chạy mà phải báo ngay cho cơ quan thú y gần nhất để được
hướng dẫn cách xử
lý.
8).
Viêm phổi do Mycoplasma :
Bệnh do
Mycoplasma gây ra (M. suispneumonia và M. hyopneumonia) và tấn công chủ yếu trên
đường hô hấp. Heo con từ 3 – 4 tháng tuổi dễ nhiễm và mắc bệnh vào các thời điểm
trời lạnh và
ấm.
Biểu hiện chung
của heo bệnh là thường tách đàn nằm ở góc chuồng, kém ăn, chậm lớn, da nhợt
nhạt, thân nhiệt có thể không tăng hoặc chỉ tăng một ít (sốt nhẹ), heo hay hắt
hơi từng hồi, chảy nước mũi, ho liên tiếp và kéo dài ; sau đó chuyển sang trạng
thái thở khó, thở nhanh và có lúc há hốc mồm để thở. Ở thể viêm phổi mãn tính,
heo ho khan từng tiếng hay từng chuỗi dài, đặc biệt lúc sáng sớm hay buổi tối và
saucử ăn. Bệnh thường kéo dài dai dẳng, giảm tăng trọng, không điều trị dứt thí
heo còi cọc và
chết.
Bệnh tích đặc
trưng là phổi bị viêm kiểu gan hóa, trên mặt phổi xuất hiện các dạng sợi làm
phổi dính vào lồng ngực. Màng phổi viêm nặng, khí quản, phế quản viêm và có dịch
nhầy, hạch lâm ba phổi sưng to, tụ
máu.
Đối với bệnh
viêm phổi do Mycoplasma thì phòng bệnh vẫn là biện pháp hàng đầu ; cụ thể là các
yêu cầu : chăm sóc tốt, giữ ấm, vệ sinh kết hợp với sử dụng vắc-xin (vắc-xin
Respisure 10 cc lúc 21 ngày tuổi và tái chủng sau mỗi 6 tháng). Đông thời, lư ý
heo mới mua về cần nuôi riêng theo dõi ít nhất 21 ngày, nếu không có bệnh mới
cho nhập
đàn.
Khi phát hiện
heo bệnh, có thể dùng các loại thuốc như Draxxin, Terramycin LA, Duranixin LA
Excede, Tylan200…để điều trị nhưng chú ý cần nuôi cách ly để tránh lây nhiễm cho
heo khoẻ.
9).
Hội chứng rối loạn sinh sản hô hấp (PRRS) :
Thuộc bệnh
truyền nhiễm do một loại siêu vi trùng gây ra. PRRS lây lan mạnh và gây nhiều
thiệt hại. Bệnh có thể lây truyền qua nhiều đường : lây trong cùng bầy, cùng
chuồng, heo mẹ lây cho heo con, heo nọc cho heo nái, lây qua vật dụng chăn nuôi,
thức ăn, nưốc uống và cả qua không
khí.
Biểu hiện của
bệnh rất thay đổi theo chủng siêu vi khuẩn gây bệnh cụ thể, khả năng miễn dịch
của heo và cách chăn nuôi ở mỗi nơi. Triệu chứng của heo ban đầu là bỏ ăn, lừ
đừ, sốt, khó thở, xung huyết dưới da ; đặc biệt ở phần tai xuất hiện sắc tố xanh
không bền (nên còn được gọi là bệnh tai xanh). Thời gian nung bệnh có thể từ 3 –
7 ngày. Heo nái mắc bệnh thường có hiện tượng rối loạn sinh sản như chậm lên
giống, phối giống không đậu thai, dễ sẩy thai vào giai đoạn cuối, heo sơ sinh
yếu, trọng lượng heo con không đồng đều, dị dạng hoặc thai khô. Ngoài ra, nái có
thể có các triệu chứng thần kinh như rối loạn vận động, quay vòng, té ngã. Heo
nọc có biểu hiện lờ đờ, tái xanh ở tai, giảm khả năng sinh dục và chất lượng
tinh. Heo con theo mẹ bị chết nhiều trước và sau cai sữa, viêm kết mạc mắt, phù
thủng mí mắt, tiêu chảy kéo dài, thở khó, ít hoặc không ho, lông xù, khô và có
thể bị chảy máu ở rốn. Heo cai sữa và heo thịt thường có biểu hiện rối loạn hô
hấp, giảm tăng
trọng.
Do siêu vi gây
bệnh nên không có thuốc điều trị. Vì vậy, chủ yếu là áp dụng các biện pháp chăn
nuôi an toàn sinh học. Riêng vắc-xin thì cần chọn chủng loại và lịch trình tiêm
theo hướng dẫn của nơi sản xuất vắc-xin và cơ quan thú y địa phương để phù hợp
với chủng siêu vi gây
bệnh.
10).
Bệnh Liên cầu khuẩn trên :
Bệnh do vi
khuẩn dạng chuổi cầu gây ra (Streptococcuc suis). Vi khuẩn tập trung tấn công ở
hạch hạnh nhân, đường sinh dục. Thực tế, vi khuẩn này thường hiện diện ở môi
trường chăn nuôi và có thể có ngay trên heo khoẻ mạnh nên luôn là mối nguy hiểm
tiềm tàng chực chờ bộc phát khi có sự thay đổi bất lợi cho heo về môi trường
nuôi ; nhất là ở các nơi chăn nuôi kém vệ sinh, kém dinh dưỡng hoặc khi vận
chuyển heo không đúng cách. Bệnh có thể lây truyền qua đường hô hấp, các chất
bài tiết, máu của heo bệnh, qua tiếp xúc trực tiếp hoặc qua kim tiêm, heo con có
thể bị lây từ heo mẹ qua đường hô hấp, tiêu hóa và
máu.
Heo mắc bệnh
thường có triệu chứng sốt cao, ủ rũ, biếng ăn, có biểu hiện thần kinh như run
rẫy, đứng không vững, liệt, có thể bị viêm khớp, viêm khí quản, viêm phổi và
chết đột ngột. Bệnh tích đặc trưng là viêm màng não, viêm nội tâm mạc, viêm
phổi, bại huyết, rối loạn tiêu hóa và sẩy thai trên nái, các hạch bạch huyết
sưng và sung huyết, dịch não tủy bị đục, nội cơ tim, van tim viêm sùi giống như
bông cải.
Biện pháp điều
trị là sử dụng kháng sinh (Ampicilline, Cephalosprin, Trimethoprim ...) kết hợp
thuốc kháng viêm, thuốc trợ lực. Tuy nhiên, tốt nhất là chủ động phòng bệnh bằng
cách chỉ mua heo giống có nguồn gốc rõ ràng, đã được kiểm dịch sạch bệnh và
trong qua trình nuôi luôn áp dụng các biện pháp an toàn sinh
học.
11).
Bệnh Phù thủng do E. Coli :
Bệnh thường xảy
ra trên heo cai sữa hoặc sau cai sữa 1 – 3 tuần. Thường những heo tăng trọng
nhanh trong đàn có nguy cơ nhiễm bệnh cao hơn ; sau đó lây sang heo khác. Bệnh
thường xảy ra ở nơi chăn nuôi dơ bẩn, ẩm thấp, thức ăn nước uống nhiễm bẩn hoặc
lúc thay đổi thức ăn đột ngột, lúc chuyển chuồng. Heo có thể bị tiêu chảy nếu
chỉ nhiễm các chủng E.Coli sinh độc tố gây hại ở đường tiêu hoá ; còn heo có
triệu chứng phù thủng, sưng mắt, co giật nếu bị nhiễm các chủng E.Coli gây hại
đường máu.
Khi mắc bệnh,
heo có các triệu chứng kém ăn, kém linh hoạt. Ở thể quá cấp heo chết đột ngột
trước khi có triệu chứng phù. Ở thể bình thường, bệnh diễn ra trong vòng 2 – 3
ngày với các biểu hiện : sốt nhẹ hoặc không sốt, kém ăn, khó nuốt, phù thủng ở
mí mắt, vùng cổ họng, khản giọng, tiếng kêu thay đổi, mất thăng bằng, đi xiêu
vẹo, co giật kiểu bơi chèo, khó thở, liệt trước khi chết. Bệnh tích điển hình là
phù thủng dưới da vùng trán, mí mắt, quanh tim, niêm mạc dạ dày, thanh quản, túi
mật, hạch bạch huyết, xuất huyết thành điểm ở thận, não và xoang bụng tiết nhiều
dịch.
Việc điều trị
chỉ cho kết quả khi phát hiện sớm lúc chưa nhiễm độc tố vào máu, chưa có triệu
chứng phù thủng. Heo bệnh cần nuôi cách ly nhưng vẫn dùng thuốc điều trị cho
toàn đàn bằng các loại kháng sinh như Ampidexalone, Neomycine, Colistin,
Baytril…kèm theo thuốc trợ sức, tăng cường sức chống chịu. Trong qua trình điều
trị chỉ nên cấp nước, hạn chế cho ăn. Trong thực tế, hiệu quả điều trị thường
thấp do khó phát hiện sớm ; vì vậy, cần tập trung phòng bệnh bằng chế độ chăn
nuôi thật vệ sinh, định kỳ xử lý sát trùng chuồng trại, dụng cụ và áp dụng cách
pha trộn định kỳ thuốc kháng sinh trong thức ăn, nước uống cho heo con trước và
sau cai sữa. Đồng thời, nên chia nhiều cữ cho ăn trong ngày, tránh cho heo ăn
quá no, không thay đổi thức ăn quá đột
ngột.
12).
Bệnh Viêm phổi màng phổi (APP)
Bệnh do một
loại vi trùng gây ra và thường gặp ở heo choai và heo vỗ béo ; hiện nay bệnh có
khuynh hướng xảy ra nhiều hơn trên đàn heo nuôi theo hướng công nghiệp với tỷ lệ
lây nhiễm và gây chết khá
cao.
Heo bệnh ở thể
cấp tính bị sốt rất cao, ho, thở khó, thở bằng đường miện, yếu, nằm bẹp. Đầu
tiên ở phần da mũi, tai, chân bị tái, sau đó lan rộng ra cả cơ thể, chết nhanh ;
lúc này mũi, miệng chảy nhiều dịch lẫn máu và bọt khí. Ở thể không cấp tính thì
heo bệnh không sốt hoặc chỉ sốt nhẹ, ho từng cơn, kém ăn, giảm trọng lượng ; tuy
nhiên bệnh sễ trở nên trầm trọng hơn nếu heo bị nhiễm các bệnh khác vào đường hô
hấp. Bệnh tích điển hình là vùng phổi bị viêm cứng, có màu nâu sẩm, dịch viêm
tràn vào xoang ngực và có lẫn
máu.
Biện pháp ngăn
ngừa chủ yếu là chủ động phòng bệnh bằng việc duy trì chês độ dinh dưỡng tốt, ổn
định và định kỳ pha, trộn kháng sinh phòng bệnh trong thức ăn, nước uống. Khi
phát hiện cần nuôi cách ly và điều trị sớm bằng các loại kháng sinh như Baytril
Max, Amoxisol LA, Draxxin
..
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét